Tòa án là thiết chế thực thi quyền lực nhà nước cho nên Tòa án giữ vai trò như thế nào trong việc bảo vệ quyền của phụ nữ chịu ảnh sự mạnh mẽ bởi ý chí và mong muốn của Đảng, Nhà nước và người dân về bình đẳng giới, trao quyền cho phụ nữ, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển của phụ nữ trong xã hội. Chính vì thế, việc đánh giá nhận thức của Đảng, Nhà nước và người dân trong lĩnh vực này được hệ thống trên cơ sở các phương diện sau:
Thứ nhất, mức độ đúng đắn và toàn diện trong quan điểm của Đảng và Nhà nước về mục tiêu bảo vệ quyền của phụ nữ.
Trải qua những thăng trầm lịch sử với truyền thống yêu nước và cách mạng, phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp to lớn trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước; ngày nay đang tiếp tục phát huy vai trò, vị trí quan trọng trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm của Đảng về mục tiêu bảo vệ phụ nữ một mặt dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của phụ nữ, mặt khác xuất phát từ đặc điểm tình hình phụ nữ Việt Nam. Đảng ta khẳng định: phụ nữ Việt Nam là một bộ phận quan trọng, lực lượng to lớn trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, phải luôn quan tâm, chăm lo đến phụ nữ, coi đó là vấn đề chiến lược có ý nghĩa quan trọng. Quan điểm đó luôn luôn được quán triệt trong các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của Đảng qua các thời kỳ.
Trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930, quan điểm “Nam, nữ bình quyền” của Đảng đã xác định, khẳng định vị trí, vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Trong những năm tháng ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ngày 10/01/1967, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 152-NQ/TW về một số vấn đề tổ chức lãnh đạo công tác phụ vận, chỉ rõ: “Tư tưởng phong kiến đối với phụ nữ còn tồn tại khá sâu sẳc trong một số cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo. Thể hiện rõ nhất tư tưởng hẹp hòi, “trọng nam khinh nữ”, chưa tin vào khả năng lãnh đạo và khả năng quản lý kinh tế của phụ nữ, chưa thấy hết khó khăn trở ngại của phụ nữ…”
Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, để phát huy hơn nữa vị trí, vai trò của các tầng lớp phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân Chỉ thị số 44- CT/TW ngày 7/6/1984 của Ban Bí thư về một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ chỉ rõ: “Nhiều cấp uỷ Đảng và lãnh đạo các ngành buông lỏng việc chỉ đạo thực hiện các nghị quyết của Đảng về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ…còn tư tưởng phong kiến, coi thường phụ nữ, đối xử thiếu công bằng với chị em…”; “Các trường lớp đào tạo, bồi dưỡng trong nước và ngoài nước, khi chiêu sinh cần quy định tỷ lệ nữ một cách thoả đáng; …Các trường lớp tập trung cần tổ chức nhà trẻ, lớp mẫu giáo để chị em có con nhỏ gửi cháu”….
Thời kỳ đổi mới, ngày 12/7/1993 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới. Nghị quyết xác định:“phải xem giải phóng phụ nữ là một mục tiêu và nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”, đồng thời, Nghị quyết nhấn mạnh: “Xây dựng và sửa đổi, hoàn chỉnh các pháp luật, chính sách xã hội có liên quan đến phụ nữ và lao động nữ… Có chủ trương, chính sách phù hợp đối với phụ nữ dân tộc ít người, phụ nữ tôn giáo, phụ nữ nghèo, phụ nữ đơn thân, phụ nữ tàn tật”…
Quan điểm của Đảng trong nghị quyết 04-NQ/TW tiếp tục được Đảng ta khẳng định, nghiên cứu, mở rộng trong các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng phù hợp với sự nghiệp đổi mới đất nước. Ngày 16/5/1994 Ban Bí thư Trung ương đã ban hành Chỉ thị số 37-CT/TW về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới. Chỉ thị khẳng định: “Cần xây dựng Chiến lược đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng lao động nữ nói chung và cán bộ nữ nói riêng…Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ nữ làm công tác khoa học- kỹ thuật, kinh tế, pháp luật, hành chính, quản lý nhà nước,…cán bộ nữ dân tộc ít người, tôn giáo, vùng sâu, vùng xa. Các trường lớp đào tạo, bồi dưỡng của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể khi chiêu sinh cần có quy định tỷ lệ nữ một cách thoả đáng, đưa vào chương trình đào tạo những kiến thức về giới…”
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001), trong phần Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, Báo cáo chính trị ghi rõ: “Đối với phụ nữ, thực hiện tốt luật pháp và chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp, nâng cao học vấn; có cơ chế, chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp, các ngành, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em; tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt thiên chức người mẹ; xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4/2006) tiếp tục khẳng định: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của người công dân, người lao động, người mẹ, người thày đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp. Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em. Bổ sung và hoàn chỉnh các chính sách về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, thai sản, chế độ đối với lao động nữ. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”.
Ngày 27/4/2007, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/T.Ư về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết đã nêu lên những quan điểm cơ bản của Đảng ta trong công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết có ý nghĩa quan trọng nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tiếp tục đổi mới công tác phụ nữ để họ tham gia ngày càng nhiều hơn, chủ động hơn, đóng góp ngày càng lớn hơn cho sự phát triển của gia đình, đất nước và thực hiện bình đẳng giới. Nghị quyết đã nêu lên những quan điểm cơ bản của Đảng ta trong công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước: “ Phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội là một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới…Xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Ðảng. Công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và từng gia đình…”. Những quan điểm của Đảng trong nghị quyết số 11-NQ/TW đánh dấu bước chuyển biến quan trọng về tư duy nhận thức của Đảng ta đối với công tác phụ nữ, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình công tác vận động phụ nữ, giải phóng phụ nữ.
Tiếp tục thực hiện mục tiêu giải phóng phụ nữ, công tác vận động phụ nữ tham gia thực hiện đường lối đổi mới, nghị quyết Đại hội XI của Đảng (01/2011) khẳng định: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện các luật pháp, chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của mình; tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia vào cấp ủy và bộ máy quản lý nhà nước. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”Đa.
Quan điểm của Đảng về công tác phụ nữ được thể hiện qua các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng thể hiện quá trình phát triển về mặt nhận thức của Đảng ta về vấn đề phụ nữ, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và phấn đấu “đến năm 2020, xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học nữ có trình độ cao, cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Tại Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định rõ nội dung lãnh đạo công tác phụ nữ là: “Nâng cao trình độ mọi mặt về đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ, thực hiện tốt bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển tài năng. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện pháp luật và chính sách đổi mới lao động nữ, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình trong gia đình và xã hội. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và xử lý nghiêm minh theo pháp luật các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại nhân phẩm phụ nữ”. Ngày 20/01/2018, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 21-CT/TW về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới. Đó là những định hướng rất cụ thể, thiết thực về sự lãnh đạo của Đảng nhằm mục tiêu bảo vệ quyền của phụ nữ. Trên cơ sở đó, nhận thức về vai trò, vị trí của phụ nữ và thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội có chuyển biến tích cực. Hệ thống luật pháp, chính sách đối với phụ nữ và bình đẳng giới từng bước được hoàn thiện, có nhiều tiến bộ. Phụ nữ ngày càng khẳng định vai trò, vị trí quan trọng trong gia đình và xã hội để phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Thứ hai, mức độ nhất quán của đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về tổ chức và hoạt động của Tòa án với mục tiêu bảo vệ quyền của phụ nữ.
Ngoài ra, Việt Nam đang tích cực triển khai trên toàn quốc Chiến lược Quốc gia vì sự Tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam đến năm 2010, đến nay nhiều chỉ tiêu đã đạt trước kế hoạch. Quan điểm giới cũng được lồng ghép vào nhiều văn bản quốc gia quan trọng như Chiến lược Tăng trưởng và Xoá đói Giảm nghèo, Kế hoạch Phát triển Kinh tế – Xã hội 2005-2010, các chiến lược phát triển ngành… Hiện Việt Nam đang nỗ lực xây dựng Chiến lược Quốc gia về Bình đẳng giới cho giai đoạn 2011-2020.
Bên cạnh chính sách, hệ thống các cơ quan, tổ chức tham mưu và thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ bao gồm Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Uỷ ban Quốc gia vì sự Tiến bộ của Phụ nữ và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Hệ thống tổ chức của các cơ quan này được thiết lập và phát triển ở tất cả các cấp trong toàn quốc.
Trên thực tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ về đảm bảo các quyền của phụ nữ. Tỷ lệ nữ là đại biểu Quốc hội đạt 25,76% (nhiệm kỳ 2007-20011), đứng thứ 4 ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. 83% nữ giới trong độ tuổi lao động có việc làm. Phụ nữ có mặt ở hầu hết các cơ quan hành chính và doanh nghiệp Nhà nước, với 68,7% cán bộ công chức và 30% chủ doanh nghiệp là nữ. Phụ nữ còn tham gia tích cực trong các tổ chức chính trị-xã hội và chiếm khoảng 30% trong ban chấp hành các cấp. Phụ nữ được đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất/quyền sở hữu nhà ở cùng với người chồng, được hưởng quyền bình đẳng như nam giới trong vấn đề quốc tịch. Tỷ lệ biết chữ ở người lớn của nữ là 91%; 30% số người có trình độ sau đại học là nữ. Tuổi thọ trung bình của phụ nữ là 73 trong khi nam giới là 70. Phụ nữ có quyền được nghỉ 4 tháng sau khi sinh con, hưởng nguyên lương và được phụ cấp thêm 1 tháng lương nữa. Theo xếp hạng của Liên hợp quốc, chỉ số phát triển con người (HDI) và chỉ số giới (GDI) của Việt Nam là 105/177 nước và 91/157. Việt Nam có tên trong danh sách các nước xây dựng được số đo về sự trao quyền cho giới (GEM) với vị trí 52/93 nước. Theo Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển châu Á, “Việt Nam là một trong những nước dẫn đầu thế giới về tỷ lệ phụ nữ tham gia các hoạt động kinh tế, là một trong những nước tiến bộ hàng đầu về bình đẳng giới… là quốc gia đạt được sự thay đổi nhanh chóng nhất về xoá bỏ khoảng cách giới trong 20 năm qua ở khu vực Đông Á”.
Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề còn tồn tại như tình trạng phân biệt đối xử, ngược đãi và bạo hành đối với phụ nữ, nạn mại dâm cần được khắc phục trong thời gian tới. Đặc biệt là trong lĩnh vực tư pháp hình sự, vì đây là nơi phụ nữ bị đối xử khác biệt so với nam giới dù ở vị trí nạn nhân của tội phạm hay là người phạm tội. Hệ thống tư pháp hiện nay được thiết lập để xử lý các vụ việc bạo lực nhiều cấp khác nhau và cho phép nạn nhân được lựa chọn một số cơ chế để bảo vệ quyền lợi của mình. Hệ thống tư pháp còn chưa đáp ứng được các mong muốn của nạn nhân bị bạo hành và trong nhiều trường hợp chưa tạo được cơ chế pháp lý thích hợp để họ có thể theo đuổi thủ tục pháp lý. Để khắc phục, Nhà nước ta đã tiếp tục đề ra Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền của phụ nữ, lồng ghép bình đẳng giới và tạo điều kiện phát triển cho phụ nữ. Trên cơ sở đó, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc thực thi các điều ước quốc tế về quyền của phụ nữ mà Việt Nam tham gia; hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ, chế độ trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, nhất là Tòa án. Thể chế hóa các chính sách về bình đẳng giới để đảm bảo người phụ nữ được tiếp cận và hưởng thụ các loại quyền và lợi ích trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong lĩnh vực tư pháp, bên cạnh chủ trương tiếp tục xây dựng một nền tư pháp trong sạch vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, có hiệu quả và hiệu lực cao thì Nhà nước cũng đồng thời đề ra những quy định nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động xét xử bảo vệ quyền của phụ nữ. Theo đó, Nhà nước ta đã xây dựng và hoàn thiện pháp luật theo hướng nhân đạo và tạo điều kiện cho phụ nữ đang mang thai, nuôi con nhỏ như hạn chế áp dụng hình phạt tù đối với nữ đang mang thai con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, không áp dụng hình phạt tử hình đối với nữ đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử… Bên cạnh đó, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về hỗ trợ tư pháp đối với đối tượng nữ là nạn nhân trong vụ án hình sự hoặc là đối tượng chính sách, hoàn cảnh neo đơn… theo hướng đáp ứng ngày càng đầy đủ, thuận lợi các nhu cầu đa dạng về hỗ trợ pháp lý của họ. Việc cải cách thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ cũng là một bảo đảm cho sự tham gia và chất lượng tự bảo vệ, chất lượng tranh tụng bảo vệ quyền của phụ nữ tại các phiên toà xét xử. Trong công tác xét xử, chỉ đạo tổ chức các phiên tòa lưu động để tuyên truyền, phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em; đẩy mạnh công tác phòng chống bạo lực gia đình, công tác tuyên truyền nhằm thay đổi nhận thức trọng nam khinh nữ. Trong chính hoạt động tố tụng của Tòa án, có cơ chế giám sát để hạn chế và xóa bỏ phân biệt đối xử vì lý do giới tính.
Đặc biệt, Nhà nước đã chủ trương thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên nhằm tạo nên thiết chế mới để chuyên môn hóa công tác giải quyết các vụ việc về gia đình và người chưa thành niên. Chủ trương này cũng nhằm sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân theo hướng hợp lý hơn để nâng cao hiệu quả, chất lượng và rút ngắn thời hạn giải quyết các vụ việc về gia đình và người chưa thành niên tại Tòa án nhân dân. Thực hiện chủ trương, theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, lần đầu tiên Tòa gia đình và người chưa thành niên được quy định là Tòa chuyên trách trong cơ cấu tổ chức của TAND. Tại Điều 30, 38 và 45 của Luật tổ chức tòa án nhân dân quy định trong cơ cấu của Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện có Tòa gia đình và người chưa thành niên. Việc tổ chức Tòa gia đình và người chưa thành niên ở cấp tỉnh và cấp huyện sẽ căn cứ vào yêu cầu công việc và thực tế xét xử của mỗi tòa án; đồng thời tùy thuộc vào biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký của từng tòa án và do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, quyết định. Để triển khai thi hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, ngày 21/01/2016 Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 01/2016/TT-CA quy định về việc tổ chức các Tòa chuyên trách tại Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương. Thông tư số 01 này có các quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục tổ chức, giải thể, thẩm quyền các Tòa chuyên trách trong đó có Tòa gia đình và người chưa thành niên. Ngày 28 tháng 7 năm 2017, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC quy định phòng xử án, trong đó có quy định về phòng xét xử của Tòa gia đình và người chưa thành niên. Trong phòng xử án, vị trí của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, người tham dự phiên tòa, phiên họp trong phòng xử án được bố trí trên cùng một mặt phẳng, sắp xếp theo hình thức bàn tròn; tường trong phòng xử án có màu xanh. Bàn, ghế trong phòng xử án được thiết kế theo kiểu dáng bàn, ghế văn phòng. Việc bố trí phòng xử án theo không gian mới như trên sẽ tác động tâm lý tốt tới người tham gia tố tụng là đối tượng trẻ em và phụ nữ, tránh cho họ bị cảm xúc tiêu cực và tổn thương khi đến tham dự phiên tòa với tư cách là nạn nhân, người bị bạo hành, bị ngược đãi.
Trên thực tế, từ năm 2018 Tòa gia đình và người chưa thành niên đầu tiên được thành lập tại thành phố Hồ Chí Minh và cho đến nay, ngoài 03 Tòa án nhân dân cấp cao thì đã được triển khai ở 38 tỉnh, thành phố ở Việt Nam. Việc tổ chức và dần mở rộng hoạt động của hệ thống Tòa án Gia đình và người chưa thành niên thể hiện chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về tăng cường sự bảo vệ đối với phụ nữ và trẻ em trong tình hình hiện nay. Có thể nói, đây là một cột mốc quan trọng trong tiến trình cải cách tư pháp cũng như cụ thể hóa chủ trương, đường lối của đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam về xử lý người chưa thành niên phạm tội, đồng thời chứng tỏ cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong hoạt động tư pháp. Với nhận thức các vụ việc xâm hại, bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái để lại hậu quả nghiêm trọng cho bản thân họ và cả gia đình. Đây cũng là đối tượng có đặc điểm tâm sinh lý đặc thù, đòi hỏi sự nhạy cảm trong quá trình xét hỏi và giải quyết tranh chấp. Việc tổ chức mô hình Tòa án chuyên biệt là rất cần thiết để bố trí các cán bộ làm công tác xét xử thấu hiểu đặc điểm tâm sinh lý của phụ nữ và trẻ em gái, có kiến thức, kinh nghiệm giải quyết vụ việc đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giới. Bên cạnh đó, đối với việc bảo vệ phụ nữ là đối tượng bị xâm hại, đặc biệt là đối tượng bị bạo lực, bị xâm hại tình dục thì Tòa án phải tổ chức xét xử đảm bảo họ không bị tổn thương thêm trong quá trình tố tụng, bố trí cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử thấu hiểu đặc điểm tâm sinh lý của phụ nữ và trẻ em, có kiến thức, kinh nghiệm giải quyết vụ việc đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giới.
Bên cạnh đó, Nhà nước còn chú trọng tổ chức và thực hiện các chương trình bảo vệ phụ nữ như Chương trình phối hợp trong công tác bảo vệ phụ nữ và trẻ em gái giai đoạn 2019-2022 gồm các nội dung chính: xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật về quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em gái; truyền thông đối với các vụ việc nghiêm trọng liên quan đến phụ nữ, trẻ em gái, gây bức xúc trong dư luận; phối hợp tổ chức hội thảo, tọa đàm chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn triển khai các hoạt động; nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ liên quan đến bảo vệ phụ nữ và trẻ em gái thông qua bồi dưỡng, tập huấn kiến thức, kỹ năng cần thiết cho cán bộ Hội LHPN các cấp và công chức ngành Tòa án, Kiểm sát, Công an; phối hợp biên soạn, xây dựng tài liệu liên quan đến công tác bảo vệ phụ nữ, trẻ em gái…
- Thứ ba, mức độ nhận thức của người dân về quyền của phụ nữ và ý nghĩa của việc áp dụng pháp luật trong việc bảo vệ quyền của phụ nữ.
Vị thế và vai trò của phụ nữ trong xã hội bắt nguồn từ vị trí kinh tế, chính trị, xã hội của họ, được quy định bởi địa vị của người cá nhân phụ nữ trong giai cấp và các nhóm xã hội mà cá nhân đó là thành viên. Mỗi phụ nữ có nhiều vị thế, vai trò khác nhau trong gia đình, ngoài xã hội… và tuỳ theo vai trò của mình mà họ sẽ có cách ứng xử, hành vi, tác phong, hành động tương ứng với vai trò đảm trách. Về nguyên tắc, vị trí xã hội của mọi cá nhân trong xã hội là như nhau và không có sự phân biệt, sắp xếp cao thấp. Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp và phân biệt giới thì điều này tùy thuộc vào lập trường giai cấp và giới tính của cá nhân. Mỗi người phụ nữ là một chủ thể thụ hưởng các quyền con người và cũng là chủ thể thực hiện các quyền đó. Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng việc nâng cao ý thức người dân nói chung và ý thức của phụ nữ trong việc thụ thưởng các quyền cơ bản của con người, của phụ nữ trên cơ sở tuân thủ pháp luật.
Trong hơn 20 năm trở lại đây, sự phát triển kinh tế – xã hội và sự thay đổi mạnh mẽ của gia đình và xã hội đã đem lại nhiều thay đổi về chất của vấn đề giới và phụ nữ. Trên thực tế, những đóng góp to lớn của phụ nữ cho gia đình và xã hội, cường độ lao động, tri thức và trí tuệ trong lao động, thời gian lao động đáng kinh ngạc đã khiến cho nhiều người thay đổi nhận thức về vai trò của phụ nữ, trong khi đó, pháp luật và xã hội đã tôn vinh vị thế của họ. Những đóng góp của phụ nữ không chỉ tạo ra một xã hội tiến bộ, văn minh mà còn phát triển chính bản thân người phụ nữ. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn sự chênh lệch khá lớn giữa vai trò và vị thế xã hội của phụ nữ. Phụ nữ chiếm 50,2% dân số, 49% lực lượng lao động (tương đương với nam giới) nhưng phụ nữ thường làm những công việc nặng nhọc, lương thấp hoặc có mặt nhiều trong vùng kinh tế phi chính thức (theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở do Tổng cục Thống kê tiến hành năm 2019). Tỷ lệ thất nghiệp của lao động nữ khá cao so với lao động nam do hạn chế về sức khỏe, thời gian nghỉ sinh và nuôi con, cơ hội tìm được việc làm phù hợp sau khi sinh còn thấp.
Nguyên nhân là nhận thức vấn đề bình đẳng giới trong các nhóm xã hội (gia đình, dòng họ, làng xã, dân tộc, nghề nghiệp) vẫn còn thiếu sự thống nhất. Tư tưởng“trọng nam khinh nữ”ngự trị dai dẳng trong xã hội vẫn tiếp tục là hệ quả xấu đối với nam giới trong đối xử với nữ giới, là rào cản trong quá trình thực hiện bình đẳng giới. Sự bất bình đẳng giới vẫn tồn tại trong nhiều lĩnh vực như về quyền lợi, nghĩa vụ, phân công lao động, cơ hội việc làm, tiền lương, thu nhập, cơ hội thăng tiến giữa nam và nữ. Đặc biệt, hiện tượng bất bình đẳng vẫn phổ biến ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc phụ nữ là lao động chính song lại không có tiếng nói trong gia đình. Những người đàn ông thường giành thời gian cho việc làng, việc nước, họ hàng, rồi rượu chè, các tệ nạn xã hội… nên gánh nặng gia đình cũng như cường độ lao động và sự vất vả đều dồn lên đôi vai người phụ nữ. Bên cạnh đó, phụ nữ còn tự ti, an phận, cam chịu và chấp nhận với những định kiến giới tồn tại trong xã hội. Phong tục, tập quán lạc hậu theo kiểu “xuất giá tòng phu”, “con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”, “đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”…còn tồn tại khá phổ biến ở nhiều nơi là một trong những nguyên nhân cản trở mục tiêu bình đẳng giới.
Chính vì vậy, Nhà nước luôn chú trọng việc tuyên truyền nâng cao nhận thức của nhân dân (nhất là nông dân, người dân tộc thiểu số), lãnh đạo, cán bộ công chức, viên chức về Hiến pháp, pháp luật về quyền bình đẳng và Luật bình đẳng giới…, lên án những hành vi vi phạm và kìm hãm việc thực hiện quyền bình đẳng giới như: tình trạng bạo lực gia đình, buôn bán phụ nữ và trẻ em, phân biệt đối xử giới, những hủ tục và quan điểm trọng nam khinh nữ, những vấn đề về công tác chăm sóc sức khoẻ cho bà mẹ và trẻ so sinh, về vai trò và vị trí của phụ nữ, trẻ em trong cuộc sống, trong học tập, công việc, gia đình và tham gia đoàn thể xã hội. Bên cạnh đó, tăng cường tuyên truyền về vấn đề phát triển giáo dục và đào tạo nghề cho phụ nữ và trẻ em ở nông thôn, vùng dân tộc thiểu số; việc xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ, chỉ tiêu bổ nhiệm cán bộ nữ trong cơ cấu cán bộ lãnh đạo của các cơ quan, đơn vị, địa phương…nhằm nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về vị thế của phụ nữ trong xã hội.
Nhà nước ban hành và bổ sung các văn bản pháp luật để Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và các đoàn thể phụ nữ thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Nhiều chương trình mục tiêu quốc gia đã được triển khai nhằm trợ giúp pháp lý miễn phí cho phụ nữ là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, người sống ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số… để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ, đồng thời giúp họ nâng cao kiến thức về pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật. Tuy trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ lớn trong cải cách hệ thống luật pháp nhằm thúc đẩy bình đẳng giới nhưng phụ nữ tiếp tục phải đối mặt với những bất lợi trong nhiều lĩnh vực của xã hội, bao gồm cả khi tham gia vào hệ thống tư pháp.
Trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, phụ nữ Việt Nam có nhiều cơ hội và cũng gặp nhiều thách thức để có thể khẳng định và phát huy vai trò của mình. Dù Đảng, Nhà nước, xã hội và gia đình có nỗ lực bao nhiêu mà bản thân người phụ nữ không có chí hướng và quyết tâm phấn đấu rèn luyện thì họ không thể vượt lên chính mình, không thể vượt qua những rào cản để tự tin tiếp cận và hưởng thụ quyền của mình trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Do đó, bản thân phụ nữ trước hết phải ý thức được đầy đủ vai trò về giới của mình mới có thể nắm bắt được những cơ hội, cùng với xã hội, hướng tới cách ứng xử bình đẳng giới. Thực tế đã minh chứng, nếu phụ nữ nỗ lực đạt được nhiều thành công trong cuộc sống, sự nghiệp thì chính họ đã trở thành nguồn cổ vũ, động viên to lớn cho các chị em gái, con gái họ trong gia đình và cho các đồng nghiệp nữ trong cơ quan, đoàn thể để họ vững tâm, tự tin phấn đấu vươn lên. Bản thân người phụ nữ phải nỗ lực vươn lên, vượt qua rào cản để tiếp cận và hưởng thụ quyền. Để làm được điều đó, phụ nữ cần rèn luyện đức tính tự tin để có bản lĩnh vượt qua định kiến giới và hướng đến mục tiêu tự khẳng định mình. Phụ nữ phải thể hiện mình thật sự có vai trò trong cuộc sống gia đình và ngoài xã hội; tự đào tạo, bồi dưỡng để bù đắp những thiếu hụt của bản thân, để đảm bảo điều kiện cần và đủ sẵn sàng nhận giữ trọng trách mới. Phụ nữ phải có sự tôn vinh lẫn nhau, tránh tình trạng níu kéo nhau giữa cán bộ nữ và xem thái độ ứng xử ấy như một cách khẳng định phẩm chất lãnh đạo của mình.
Đặc biệt, khi bị xâm phạm quyền thì chính nhận thức, năng lực thực hiện và tự bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, đặc biệt là bản thân người phụ nữ là yếu tố trước tiên tác động đến hiệu quả bảo vệ quyền của phụ nữ trong thực tế. Bởi khi và chỉ khi nhân dân, người phụ nữ ý thức được tầm quan trọng của việc đưa ra yêu cầu được bảo vệ thì họ mới có thể bước đầu tiếp cận được con đường đi đến công lý, bước đầu tìm kiếm sự công bằng, bình đẳng. Và phương thức bảo vệ quyền trực tiếp nhất, hiệu quả nhất chính là bằng con đường khởi kiện tại Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền áp dụng pháp luật để xét xử các hành vi xâm phạm quyền, giải quyết các tranh chấp, kết quả xét xử của Tòa án được Nhà nước bảo đảm hiệu quả bằng hoạt động cưỡng chế thi hành. Thông qua hoạt động xét xử của Tòa án, những bản án, quyết định hay các án lệ, các vụ việc điển hình về bảo vệ quyền của phụ nữ sẽ được hướng dẫn, rút kinh nghiệm chung giữa các cơ quan tư pháp để từ đó được phổ biến, nhân rộng. Đồng thời, đội ngũ các chức danh tư pháp được tập huấn chuyên biệt về hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực bình đẳng giới, bạo lực giới, bạo lực gia đình… và sự tham gia của các chuyên gia, các nhà hoạt động xã hội trong quá trình tham gia tố tụng của phụ nữ. Ngoài ra, cơ sở vật chất cũng được đầu tư phù hợp với yêu cầu đặc thù của hoạt động xét xử đối với các đối tượng phụ nữ; tăng cường áp dụng công nghệ thông tin nhằm tạo thuận lợi cho việc khởi kiện, thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong quá trình tố tụng, xây dựng các cơ sở dữ liệu thông tin và chia sẻ thông tin liên quan đến tiếp cận tư pháp của phụ nữ…
- Thứ tư, mức độ tin tưởng của người dân, của bản thân người phụ nữ vào hoạt động xét xử của Tòa án mang lại sự công bằng và bảo đảm công lý.
Từ pháp luật đến thực thi pháp luật là một khoảng cách không nhỏ thông qua nhận thức, hành vi của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức, cơ quan trong các mối quan hệ quyền, nghĩa vụ đan xen và dưới tác động của các yếu tố văn hoá truyền thống “trọng nam khinh nữ” tạo nên những bất bình đẳng, sự phân biệt đối xử và rào cản trên thực tế tiếp cận tư pháp của phụ nữ ở Việt Nam.
Với thực tế xã hội vẫn còn tồn tại những rào cản về văn hóa, phong tục tập quán cộng đồng tác động rất lớn đến cư xử của mỗi cá nhân. Theo quan niệm truyền thống, phụ nữ có nhiệm vụ giữ cho gia đình “trong ấm ngoài êm” và duy trì “các giá trị gia đình” và nếu như người phụ nữ không chịu nín nhịn thì bị cho là người có lỗi khiến nam giới sử dụng bạo lực để “giáo dục” người vợ. Khi bị bạo lực gia đình, phản ứng của phụ nữ thường là im lặng, chấp nhận và chịu đựng để giữ thể diện cho gia đình. Trong thói quen, hành vi cũng như cách ứng xử, nhận thức xã hội, nhiều phụ nữ vẫn cho rằng luôn tồn tại những bất bình đẳng trong xã hội, trong gia đình, nếu bạo lực xảy ra nguyên nhân gốc rễ là do người phụ nữ không hoàn thành sứ mệnh của mình. Do đó, trong chính bản thân người phụ nữ, khi họ quyết tâm tìm kiếm công lý cho bản thân, nhóm người này cho rằng họ đã đi ngược lại với đức hi sinh của người phụ nữ. Một vấn đề nữa là đa số người dân Việt Nam vẫn còn tâm lý “dị ứng” với hoạt động xét xử. Vì trong một thời gian dài xã hội Việt Nam chịu sự chi phối của tư tưởng Nho giáo và tư tưởng Pháp trị đề cao Vương quyền nên tâm lý xã hội vẫn còn rất e dè với văn hóa pháp đình. Một bộ phận không nhỏ người dân Việt Nam vẫn quan niệm “Vô phúc đáo tụng đình” nên họ đã không yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền khi bị xâm phạm bằng hoạt động xét xử của Tòa án mà thường tìm đến những cơ chế bảo vệ khác (cơ chế gia đình, dòng họ, làng xóm) hoặc cam chịu chấp nhận tình trạng bị hạn chế, tước đoạt nhân phẩm, danh dự và lợi ích hợp pháp của mình. Thực trạng người đàn ông (người chồng, người cha) vi phạm nghiêm trọng quyền của phụ nữ (người vợ) còn diễn ra tương đối phổ biến ở vùng nông thôn, miền núi nhưng Tòa án thông qua hoạt động xét xử khó bảo vệ được quyền cho những người bị xâm hại trong trường hợp này vì người dân, người phụ nữ chưa có quan niệm đề cao vai trò của Tòa án trong lĩnh vực này. Vẫn còn tư tưởng trong cộng đồng xã hội cho rằng, người chồng có thể dùng vũ lực như một cách để giáo dục hoặc chấn chỉnh vợ mình, hành vi bạo lực gia đình thì cũng chỉ là hành vi vi phạm đạo đức và khi xảy ra bạo lực thì gia đình, người thân, bạn bè và cơ quan chức trách khuyên răn không tái phạm hành vi đó. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều người đồng tình với quan điểm cho rằng khi vụ việc bạo lực xảy ra dù ở mức độ nào, trước hết đó là việc riêng tư của mỗi gia đình hoặc đưa ra lý do bao biện hành vi đó như đặc tính tự nhiên của người đàn ông là nóng nảy hoặc do người đàn ông là trụ cột trong gia đình, nhiều áp lực trong cuộc sống. Đối với hệ thống hỗ trợ quyền tiếp cận công lý của phụ nữ như: Hội Phụ nữ, Tổ dân phố, người thân trong gia đình khi tham gia vào vụ việc thường khuyên người phụ nữ nên tiếp tục tháo gỡ những mâu thuẫn để gìn giữ gia đình dù đang ở trong tình trạng bị bạo lực ở cấp độ nào, đặc biệt là ở các khu vực nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số. Trên thực tế, biện pháp hòa giải đối với tình trạng bạo lực ở cấp độ vừa phải cũng có khi có tác động tích cực, tuy nhiên, trong nhiều trường hợp biện pháp này lại vô tác dụng hoặc phản tác dụng, gây ra nhiều tổn thương, đau khổ cho người phụ nữ. Hệ quả là, đối với nhóm phụ nữ thường xuyên bị đánh đập, việc hòa giải của cơ quan chính quyền không mang lại hiệu quả thiết thực trên thực tế hoặc người phụ nữ có nguyện vọng nộp đơn để được bảo vệ quyền trước tình trạng bạo lực gia đình rất dễ từ bỏ quyền này để thực hiện nghĩa vụ làm vợ, giữ gìn danh dự, uy tín của gia đình, hoặc sợ hãi trước những quan điểm trái chiều của dư luận xã hội khi những thông tin riêng tư bị tiết lộ.
Có thể nói, Nhà nước ta đã xây dựng hệ thống pháp luật nhằm bảo vệ quyền của người phụ nữ khá toàn diện như Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12-11-2013 quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007, Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), Luật Bình đẳng giới năm 2006, Quyết định phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về phòng chống bạo lực gia đình được Thủ tướng Chính phủ thông qua vào 6/2/2014 và hệ thống các văn bản dưới luật… Tuy nhiên, tính răn đe hoặc loại bỏ hành vi bạo lực gia đình từ phía người chồng trên thực tế còn nhiều hạn chế. Điển hình, các quy định xử lý vi phạm hành chính được quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, Nghị định 167 với nội dung đối với các hành vi bạo lực gia đình như đánh đập, sử dụng các công cụ, phương tiện hay vật dụng khác gây thương tích cho người vợ sẽ bị phạt từ 1 triệu đồng đến 2 triệu đồng; đối với hành vi hành hạ, ngược đãi thành viên gia đình phạt tiền từ 1,5 triệu đồng đến 2 triệu đồng; đối với hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của thành viên gia đình phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1,5 triệu đồng đối với hành vi lăng mạ, chì chiết, xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình cùng với biện pháp khắc phục hậu quả kèm theo. Việc phạt tiền như vậy rất ít tác đụng, đặc biệt là đối với những gia đình không có điều kiện kinh tế, ở vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số thì sẽ làm ảnh hưởng đến kinh tế chung gia đình và làm thui chột ý định của người phụ nữ thực hiện các quyền tìm kiếm công bằng, công lý.
Như vậy, chỉ có hoạt động xét xử của Tòa án là áp dụng hiệu quả nhất quy định của pháp luật về các quyền của phụ nữ, thông qua hoạt động xét xử mà Tòa án trực tiếp bảo vệ các quyền của người phụ nữ, giúp họ khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, để người dân và bản thân người phụ nữ tin tưởng vào hoạt động xét xử của Tòa án mang lại sự công bằng và bảo đảm công lý thì trước tiên, người dân và chính bản thân người phụ nữ phải có nhận thức, hiểu biết về quyền của mình và vượt qua được các định kiến của xã hội, có quyết tâm đi tìm công lý, biết cách đòi hỏi quyền của họ khi bị vi phạm. Nếu việc trình báo, khởi kiện của người phụ nữ không được cơ quan tiếp nhận xử lý khéo léo sẽ khiến người phụ nữ tổn thương thêm một lần nữa cũng như tạo ra rào cản để người phụ nữ tìm đến công lý. Ví dụ, thực tế giải quyết các vụ việc bạo lực gia đình cho thấy, tỷ lệ thủ phạm bị buộc tội về mặt pháp luật sau khi bị trình báo là rất thấp – chỉ 12%, 87% không trình báo, và chỉ 1% trường hợp trình báo dẫn tới kết tội. Số liệu thống kê này cho thấy tâm lý không tin tưởng hệ thống tư pháp của các nạn nhân nữ, họ không sẵn sàng hoặc không thể tham gia tố tụng hình sự và thường rút lại lời khai sau khi cơ quan công an đã điều tra. Bên cạnh đó, việc tiếp nhận thông tin, yêu cầu khởi kiện và quá trình tiến hành tố tụng của Tòa án cũng phải đảm bảo những điều kiện nhất định để bảo vệ thông tin, ổn định tâm lý cho người phụ nữ bởi nếu người phụ nữ bị bạo lực gia đình, bị bạo lực tình dục thì họ thường có tâm lý ngại trả lời các câu hỏi, ngại diễn tả hành vi xâm phạm vì được coi là vấn đề rất tế nhị, riêng tư, gần như không được đề cập đến bởi khuôn phép, đạo đức. Những người phụ nữ là nạn nhân của tội phạm coi vấn đề giữ bí mật là điều hết sức quan trọng, bởi vì, khi họ quyết định trình báo công an, khởi kiện tại Tòa án thì có nghĩa là họ đã bị dồn đến bước đường cùng, đang ở trạng thái tuyệt vọng về hôn nhân, quá sức chịu đựng và luôn sợ hãi, xấu hổ.
Trên đây là tài liệu tham khảo làm luận văn ngành Luật mà mình muốn chia sẻ đến các bạn sinh viên đang chuẩn bị làm luận văn tốt nghiệp, nếu bạn muốn làm một bài luận văn tốt nghiệp tốt thì lượng thời gian và công sức bỏ ra rất nhiều. Hiện nay, giữa cuộc sống bộn bề mà thời gian lại hạn hẹp khiến các bạn không cách nào cân bằng được công việc, sức khỏe, thời gian vì vậy Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Luật ra đời chính là để giúp các bạn gánh bớt phần nặng nhọc khi làm bài luận văn. Các bạn tìm đến Dịch vụ của mình để nhờ mình hỗ trợ bài luận văn tốt nghiệp bằng cả sự tin tưởng và chờ mong vì thế mà bên mình luôn luôn nỗ lực, cố gắng bằng sự đam mê và trách nhiệm để làm bài tốt cho các bạn và đó cũng là châm ngôn làm việc của bên mình. Cách thức liên lạc rất dễ, các bạn kết nối đến với SĐT ZALO: https://zalo.me/0917193864