✅✅✅ Tải Free!!! Tải Ngay !!! Tiểu Luận Pháp Luật Về Bảo Vệ Bí Mật Kinh Doanh Bài viết sau đây mình sẽ giới thiệu đến cho các bạn một đề tài tiểu luận hoàn toàn xuất sắc chẳng những thế lại còn đạt điểm cao nữa nên các bạn không nên bỏ qua, đáng để xem và tham khảo. Nguồn tài liệu mình đã triển khai bao gồm những vấn đề lý luận về bảo hộ bí mật kinh doanh,thực trạng bảo hộ bí mật kinh doanh ở việt nam hiện nay và sau cùng là giải pháp hoàn thiện về bảo vệ bí mật kinh doanh… Hy vọng nguồn tài liệu này ít nhiều sẽ cung cấp được cho các bạn thêm nhiều kinh nghiệm hữu ích để có thể nhanh chóng hoàn thành bài tiểu luận của mình.
Hiện tại bên mình có nhận viết thuê tiểu luận với đa dạng đề tài điểm cao và chất lượng, nếu như bạn đang gặp trục trặc trong quá trình làm bài tiểu luận hoặc bạn chưa biết phải bắt đầu từ đâu, hoặc thậm chí bạn không có thời gian…v.v… Tất cả mọi vấn đề của bạn sẽ được giải quyết trong tích tắc chỉ cần bạn nhanh tay liên hệ đến dịch vụ thuê làm tiểu luận của chúng tôi qua zalo/telegram : 0917.193.864 để được tư vấn báo giá và hỗ trợ nhanh nhất đầy đủ nhất có thể nhé.
1. Những vấn đề lý luận về bảo hộ bí mật kinh doanh
1.1. Khái niệm
Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) quy định: “Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh ”.
Khái niệm bí mật kinh doanh nói trên đã phản ánh được những đặc điểm mang tính bản chất của bí mật kinh doanh ¬tính thông tin, tính bí mật và khả năng được sử dụng.
Từ điển Tiếng Việt, định nghĩa “bảo hộ” hiểu theo nghĩa thông thường là “che chở, không để bị hư hỏng, tổn thất[1]”. Bảo hộ “quyền đối với bí mật kinh doanh là việc Nhà Nước thông qua hệ thống pháp luật xác lập quyền của chủ thể (có thể là tổ chức hoặc cá nhân) đối với bí mật kinh doanh và bảo vệ quyền đó chống lại bất kỳ sự vi phạm nào của phía thứ ba[2]”.
Là một trong số những đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ, bí mật kinh doanh có đầy đủ những đặc trưng của sở hữu trí tuệ: “tính chất vô hình của đối tượng, là kết quả của hoạt động trí tuệ của con người. Bên cạnh đó, bí mật kinh doanh còn có một loạt những đặc trưng riêng của mình[3]”.
Tiểu Luận Pháp Luật Về Kinh Doanh cơ sở của việc bảo hộ bí mật kinh doanh chính là: “sự độc quyền thực tế của một chủ thể xác định đối với một tập hợp kiến thức nhất định[4]”. Những công cụ pháp lý có “trong tay chủ sở hữu bí mật kinh doanh, mặc dù có thê cho phép chủ sở hữu đó có những khả năng nhất định chống lại hành vi xâm phạm của những người xung quanh, tuy nhiên những công cụ đó là kém hiệu quả so vối những công cụ tương ứng của các chủ sở hữu các đôi tượng quyền sở hữu trí tuệ khác. Do vậy, sự sống còn phụ thuộc vào chính chủ sở hữu, vào sự toàn diện và hiệu quả của các biện pháp mà chủ sở hữu áp dụng nhằm bảo vệ độc quyền của mình đôi với thông tin[5]”.
XEM THÊM : Kho 999 Bài Mẫu Tiểu Luận Khoa Luật
1.2. Đặc điểm bảo hộ bí mật kinh doanh
Thứ nhất, bí mật kinh doanh có thể bao gồm “thông tin liên quan đến một công thức, mẫu hàng, thiết bị hoặc tập hợp các thông tin khác mà được sử dụng trong một thời gian nhất định trong một doanh nghiệp. Thông thường, bí mật kinh doanh là thông tin kỹ thuật dùng trong quá trình sản xuất hàng hoá”[6].
Thứ hai, bí mật kinh doanh có thể “liên quan đến chiến lược tiếp thị, xuất khẩu hoặc bán hàng, hay phương pháp lưu trữ tài liệu hoặc các quy trình và thủ tục quản lý kinh doanh, kể cả phần mềm dùng cho các hoạt động kinh doanh[7]”.
Tiểu Luận Pháp Luật Về Bảo Vệ Bí Mật Kinh Doanh tại Hiệp định TRIPS đưa ra những tiêu chuẩn tối thiểu cho việc bảo hộ bí mật kinh doanh như là việc bảo hộ các thông tin thuộc quyền kiểm soát hợp pháp của các cá nhân và pháp nhân nếu thông tin đó: “Có tính chất bí mật với nghĩa là không được biết đến một cách rộng rãi hoặc dễ dàng tiếp cận được đôi với những người thường quan hệ vối thông tin đó, như một tổng thể hoặc dưới dạng cấu trức chính xác và kết hợp các thành phần của nó; Có giá trị thương mại vì nó là bí mật; Đã được người có quyền kiểm soát hợp pháp thực hiện những biện pháp hợp lý theo hoàn cảnh thực tế để giữ bí mật thông tin đó[8]”.
Như vậy, để được bảo hộ với tư cách là bí mật kinh doanh thì thông tin phải đáp ứng các tiêu chí bảo hộ như sau:
Thứ nhất, thông tin phải có “tính chất bí mật hay nói một cách khác không thể tiếp cận tự do vối thông tin đó một cách hợp pháp. Nếu như bất cứ người thứ ba quan tâm nào cũng có thể nhận được thông tin một cách hợp pháp, ví dụ bằng cách nghiên cứu những thông tin sẵn có, phân tích mẫu sản phẩm đang lưu hành trên thị trường, làm quen vối những thông tin qua các phương tiện thông tin khác nhau… thì thông tin đó không thể được bảo hộ với tư cách là bí mật kinh doanh[9]”.
Thứ hai, thông tin phải có giá trị thương mại. “Nói một cách khác việc khai thác giá trị của thông tin bởi người nắm giữ nó trong hiện tại hoặc trong tương lai sẽ tạo ra lợi th ế hơn cho người đó so với những người khác không nắm giữ thông tin này[10]”. Trên cơ sở tiêu chí này một số những thông tin sau đây sẽ không được bảo hộ với tư cách là bí mật kinh doanh: “những thông tin không được quan tâm bởi nhửng người xung quanh; Những thông tin mà những người xung quanh không thể sử dụng được để đạt được mục đích thương mại của mình…”[11].
Ngoài ra, “những thông tin có giá trị thương mại hiện thực hoặc tiềm ẩn phải không những người khác biết đến. Trong đó, những người khác ở đây được hiểu là những người mà đối với họ những thông tin này (bí mật kinh doanh) mang lại lợi ích kinh doanh nhất định[12]”. Ví dụ: các nhà sản xuất cạnh tranh với nhà sản xuất có bí mật kinh doanh, người sử dụng sản phẩm, dịch vụ của họ,…
Tiểu Luận Pháp Luật Về Bảo Vệ Bí Mật Kinh Doanh thứ ba, thông tin phải đươc chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết. Phạm vi “của các biện pháp bảo mật này rất đa dạng và phong phú. Đó có thể là những biện pháp mang tính chất kỹ thuật, tổ chức, pháp lý nhằm mục đích ngăn chặn sự tiếp cận không hợp pháp của những người khác với thông tin cần được bảo vệ. Ở đây không đòi hỏi chủ sở hữu thông tin phải áp dụng các biện pháp đặc biệt để bảo vệ thông tin. Điều quan trọng là từ những hành vi cụ thể chủ sở hữu phải thể hiện được ý muốn giữ gìn bí mật của thông tin mà mình nắm giữ. Điều kiện cần và đủ là chủ sở hữu có các biện pháp hạn chế sự tiếp cận đối với thông tin, trong trường hợp có sự tiếp cận (đối với người làm công chẳng hạn) thì chủ sở hửu phải cho họ hiếu rõ rằng không thể phổ biến thông tin đó mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu[13]”.
1.3. Vai trò của việc bảo hộ bí mật kinh doanh
Cần phải bảo hộ bí mật kinh doanh vì:
Thứ nhất, có được bí mật kinh doanh sẽ làm tăng giá trị thương hiệu của doanh nghiệp đó. Ví dụ: “công thức chế biến thức uống Coca-cola là một bí mật kinh doanh của công ty Coca-cola. Cho đến nay công ty Coca-cola vẫn là doanh nghiệp duy nhất có thể sản xuất được loại nước uống ưa chuộng này. Có thể nói, Coca-cola đã thể hiện đẳng cấp của mình trên thị trường vì khi nhắc đến Coca-cola thì không ai không biết đến công ty sản xuất ra nó chính là Công ty Coca-cola[14]”.
Thứ hai, tăng ưu thế cạnh tranh đối với những đối thủ cạnh tranh trên thương trường. Như vậy thì để tìm ra hướng đi của mình doanh nghiệp phải có những bí quyết riêng để tiết kiệm tối đa chi phí, đảm bảo hiệu quả sản xuất. Do đó, đây là bí mật kinh doanh và doanh nghiệp đó không muốn để các đối thủ khác biết
XEM THÊM :179+ Đề Tài Tiểu Luận Luật Tài Chính
2. Thực trạng bảo hộ bí mật kinh doanh ở Việt Nam hiện nay
Ở nước ta, việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được ghi nhận tại Bộ luật dân sự 2015, Luật sở hữu trí tuệ và một số các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật sở hữu trí tuệ.
2.1. Bất cập từ những quy định của pháp luật
Thứ nhất, về điều kiện bảo hộ bí mật kinh doanh
Về cơ bản, các điều kiện bảo hộ theo quy định của pháp luật nước ta đã thể hiện được ba đặc điểm chính của bí mật kinh doanh là: “tính bí mật; có giá trị; và được chủ sở hữu bảo mật”. Tuy nhiên, so sánh với quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, chúng ta thấy có một số điểm khác biệt như:
– Tiểu Luận Pháp Luật Về Bảo Vệ Bí Mật Kinh Doanh theo Hiệp định TRIPs, một trong các điều kiện quan trọng để bí mật kinh doanh được bảo hộ là phải có giá trị thương mại (commercial value). Cụ thể, Hiệp định TRIPs quy định thông tin được bảo hộ phải đáp ứng các điều kiện: “Có tính chất bí mật nghĩa là các thông tin đó không phổ biến hoặc không dễ dàng tiếp cận thông tin đó dưới dạng thông tin toàn bộ, tức là dưới dạng ghép nối theo trật tự chính xác mọi chi tiết của thông tin đó đối với những người thường xuyên giải quyết với các loại thông tin như vậy; có giá trị thương mại vì nó có tính chất bí mật, và được người kiểm soát hợp pháp thông tin đó giữ bí mật bằng các biện pháp hợp lý[15]”. Điều 9, Chương 2 “Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ” cũng quy định tương tự. Như vậy, pháp luật Việt Nam chưa quy định cụ thể, rõ ràng. Trên thực tế, “giá trị thương mại của bí mật kinh doanh được tạo ra bởi nhiều yếu tố, trong đó lợi thế mà bí mật kinh doanh mang lại cho người nắm giữ nó chỉ là một trong các yếu tố quan trọng làm nên giá trị thương mại của thông tin[16]”.
– Cũng theo Hiệp định TRIPs, “thông tin được bảo hộ khi không phổ biến, không dễ dàng tiếp cận[17]” không phải là đối với mọi chủ thể mà chỉ đối với “những người thường xuyên giải quyết đối với các loại thông tin như vậy”. Điều này có nghĩa, “ngay cả những người thường xuyên tiếp xúc, xử lý thông tin đó, thì đối với họ, những thông tin như vậy vẫn là loại thông tin không phổ biến, hay có thể gọi là thông tin hiếm”[18]. Quy định trên của Hiệp định TRIPs có ý nghĩa quan trọng trong việc “ngăn cản việc bảo hộ quá rộng đối với các loại thông tin khác tồn tại trên thực tế. Tuy nhiên, nội dung này của Hiệp định TRIPs lại chưa được pháp luật Việt Nam thể chế hóa đầy đủ, rõ ràng.”…
Thứ hai, Các chế tài xử lý đối với hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh cũng chưa thực sự nghiêm khắc
Điều này một phần là do “hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh khi ít ảnh hưởng lớn tới người tiêu dùng và toàn xã hội mà chỉ ảnh hưởng tới chủ sở hữu nó. Do vậy, hiện nay theo những biện pháp chế tài được quy định tại Luật sở hữu trí tuệ, đó chủ yếu là biện pháp dân sự và hành chính. Tuy vậy, nếu xem xét và làm một phép so sánh giữa trị giá bồi thường theo chế tài mà các chủ thể vi phạm phải thực thi và ngược lại, những lợi ích khổng lồ mà hành vi xâm phạm đến bí mật kinh doanh mang lại cho những đối tượng này, có thể hiểu được tại sao họ vẫn sẵn sàng xâm phạm bí mật kinh doanh, mặc dù có thể đều đã nắm rất rõ những quy định của Luật này”.
Thứ ba, một số bất cập của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và hướng hoàn thiện
Bộ luật Hình sự 2015 quy định “Người nào cố ý xâm phạm quyền Sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam mà đối tượng là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ….”[19]. Về thuật ngữ “quy mô thương mại”. Đây là thuật ngữ khoa học được sử dụng trong hiệp định TRIPS. Tại Hiệp định TRIPS quy định “yêu cầu phải xử lý hình sự ít nhất đối với trường hợp cố tình giả mạo nhãn hiệu với quy mô thương mại. Bên cạnh đó khái niệm giả mạo nhãn hiệu cũng chưa được giải thích trong bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào mà phải suy luận từ khái niệm giả mạo hàng hóa[20]”. Tại Điều 213 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định “Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này bao gồm hàng hóa giả mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý sau đây gọi là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu quy định tại khoản 2 Điều này và hàng hóa sao chép lậu quy định tại khoản 3 Điều này[21]”. “Hàng hóa giả mạo nhãn hiệu là hàng hóa, bao bì của hàng hóa có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý.”
Đối chiếu với Điều 129 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định về “những hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý” có thể thấy rằng những hành vi được liệt kê tại Điều 129 được xem là những hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Thuật ngữ “dấu hiệu khó phân biệt với nhãn hiệu đang được bảo hộ” cũng cần phải xem xét vì về bản chất tất cả các dấu hiệu bị coi là xâm phạm nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý nói chung đều khó phân biệt (không có khả năng phân biệt) với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ.
2..2. Bất cập từ việc thực thi những quy định của pháp luật
Thứ nhất, “vẫn chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào quy định về thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc giải quyết tranh chấp về bí mật kinh doanh”.
Đây là “một thực trạng có thể thấy chung đối với các loại tài sản sở hữu công nghiệp nói chung, không chỉ riêng đối với bí mật kinh doanh, như đối với nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý… Trong bối cảnh sản xuất – kinh doanh, nghiên cứu sáng tạo như hiện nay, thiết nghĩ một nhu cầu về một văn bản riêng điều chỉnh về từng chế định cụ thể trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói chung nhằm thống nhất tất cả các quy định nằm rải rác khắp các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau thực sự là một nhu cầu không thể thiếu, đặc biệt là đối với thực trạng xử lý và giải quyết những vụ việc xâm phạm đến bí mật kinh doanh[22]”.
Thứ hai, “vấn đề bảo hộ bí mật kinh doanh còn khá mới mẻ ở Việt Nam và thường mới chỉ được coi trọng ở các công ty lớn”.
Tiểu Luận Pháp Luật Về Bảo Vệ Bí Mật Kinh Doanh đối với một số công ty lớn, việc bảo vệ bí mật kinh doanh của mình là một hoạt động mang tính sống còn đối với sản phẩm, hoạt động kinh doanh của chính họ. Ví dụ: “Trường hợp của doanh nghiệp Công ty Rượu và Nước giải khát Anh Đào. Ông Vũ Mạnh Hào – Giám đốc điều hành Công ty cho biết, để giữ bí quyết kinh doanh, ông thiết kế hẳn một quy trình bảo mật và chia thành nhiều phần. Trong quy trình công nghệ, ông Hào cắt ra một công đoạn quan trọng nhất và chỉ một mình ông nắm giữ công thức[23]”.
Công thức “chế biến cà phê Trung Nguyên cũng được bảo vệ khá kỹ. Tổng giám đốc Đặng Lê Nguyên Vũ cho biết, từng công đoạn, từ hương liệu, nhiệt độ cho tới khâu tẩm ướp nguyên liệu được giao cho nhiều người nắm giữ. Ban đầu, vị giám đốc này chịu trách nhiệm quản lý công đoạn quan trọng nhất trong 7 bước chế biến, song công việc ngày càng bận rộn, ông phải lựa chọn người có uy tín để chuyển giao[24]”.
Nhưng việc bảo hộ bí mật kinh doanh chỉ được thực hiện ở những công ty lớn, có sức hút với người tiêu dùng trên thị trường. Đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ thường xem nhẹ vấn đề này, không dự đoán trước được những tình huống có thể xảy ra nếu bí mật kinh doanh bị mất đi.
Các vụ gián điệp kinh tế, mua chuộc nhân viên, phân tích ngược… vẫn diễn ra hằng năm với số lượng khá phổ biến, khiến nhiều doanh nghiệp lúng túng trong cách thức giải quyết. Điển hình như “vụ Công ty CP Thực phẩm Tân Tân bị đối thủ cạnh tranh thiết kế ngược sản phẩm và tạo sản phẩm tương tự cùng những bổ sung cũng như việc PR hiệu quả hơn khiến Công ty Tân Tân mất hẳn thị phần trên sản phẩm này”.

3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hộ bí mật kinh doanh
-
Các giải pháp hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, luật sở hữu trí tuệ cần quy định cụ thể hơn về phạm vi và điều kiện bảo hộ.
Học tập kinh nghiệm của các nước, pháp luật Việt Nam khi quy định về bí mật kinh doanh cần đưa ra các tiêu chí mang tính chuẩn mực để việc xác định đối tượng được bảo hộ thuận lợi và chính xác. Theo đó có thể quy định: “bí mật kinh doanh là các thông tin về khoa học kỹ thuật, về quy trình sản xuất, về tài chính hoặc các thông tin về các hoạt động sản xuất kinh doanh khác”. Khái niệm cụ thể này sẽ “giúp chúng ta xác định được phạm vi các thông tin sẽ được pháp luật Việt Nam bảo hộ là bí mật kinh doanh một cách chính xác, tránh những tranh cãi không cần thiết như hiện nay”.
Về điều kiện bảo hộ: Điều 84 Luật sở hữu trí tuệ “đã quy định các điều kiện chung đối với bí mật kinh doanh”, tuy nhiên cần phải có hướng dẫn cụ thể về nội dung của từng điều kiện:
– Tiểu Luận Pháp Luật Về Bảo Vệ Bí Mật Kinh Doanh giải thích thế nào là một thông tin được xem là “bí mật”. Hiện nay pháp luật Việt Nam đã đưa ra hai tiêu chí: “không phải là hiểu biết thông thường; không dễ dàng có được”. Tuy nhiên, pháp luật “cần chỉ rõ hai tiêu chí trên không phải áp dụng đối với mọi chủ thể mà chỉ áp dụng đối với những chủ thể là người thường xuyên xử lý loại thông tin đó[25]”.
– Để thể hiện được giá trị thương mại của bí mật kinh doanh, cần bổ sung thêm điều kiện để thông tin được bảo hộ là “có giá trị thương mại và khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ bí mật kinh doanh D lợi thế so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng bí mật kinh doanh đó”. Thêm nữa, pháp luật cần giải thích các “lợi thế” đó có thể có ở hiện tại hoặc tương lai với điều kiện hợp pháp.
– Cần hướng dẫn cụ thể về “các biện pháp bảo mật có thể được chủ thể quyền áp dụng nhằm hạn chế các tranh cãi về việc đã có hay chưa các biện pháp bảo mật được coi là cần thiết? Kinh nghiệm của các nước là thường đưa ra một số biện pháp bảo mật mẫu mà chủ thể quyền có thể áp dụng để bảo mật các thông tin của mình”.
Thứ hai, để hoàn thiện chế tài hình sự cần:
– Cần phải ban hành văn bản giải thích yếu tố “quy mô thương mại”. Chính vì “từ trước đến nay chưa có văn bản nào giải thích về yếu tố quy mô thương mại dẫn đến các vụ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp khi áp dụng khi xử lý hình sự thường nhẫm lẫn với tội sản xuất buôn bán hàng giả”. Bộ Khoa học và công nghệ cần “phối hợp với các cơ quan khác ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng quy định về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Trong đó lưu ý việc giải thích dấu hiệu với quy mô thương mại…dấu hiệu này có thể xác định dựa trên giá trị hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý hoặc thu lợi bất chính từ việc mua bán các loại mặt hàng này”[26].
– Cần mở rộng đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp bị xâm phạm trong quy định về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Theo quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ 2005: “quy định đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý[27]”.
Tiểu Luận Pháp Luật Về Bảo Vệ Bí Mật Kinh Doanh chính vì vậy, mở rộng đối tượng quyền sở hữu công nghiệp là phù hợp với tình hình vi phạm thực tế về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và phù hợp với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.
Thứ ba, chủ thể sở hữu bí mật kinh doanh phải “có các biện pháp, chiến lược quản lý và bảo hộ bí mật kinh doanh thích hợp để không rơi vào tình trạng mất bò mới lo làm chuồng, không thể phụ thuộc hoàn toàn vào việc bảo hộ theo pháp luật theo thực trạng hiện nay. Do vậy, nếu pháp luật muốn có được sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa đối với các chủ thể nêu trên, những chế tài xử lý hành vi vi phạm bí mật kinh doanh cần được mở rộng hơn về phạm vi, cũng như mức độ áp dụng[28]”.
- Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hộ bí mật kinh doanh
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của chủ sở hữu trong việc bảo vệ bí mật kinh doanh
Tiểu Luận Pháp Luật Về Bảo Vệ Bí Mật Kinh Doanh chủ sở hữu bí mật kinh doanh cần “nhận thức vai trò của mình trong việc bảo hộ quyền sở hữu đối với bí mật kinh doanh. Bởi việc bảo hộ quyền sở hữu đối với bí mật kinh doanh phải bắt đầu từ chính các doanh nghiệp – chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó. Hơn ai hết chủ sở hữu phải là người nhận thức rõ nhất phạm vi bảo hộ của mình từ đó phát hiện ra các hành vi vi phạm, vì chính họ là người trực tiếp bị thiệt hại nặng nề nhất”.
Thứ hai, nâng cao nhận thức của xã hội về bí mật kinh doanh
Nhận thức của xã hội về bí mật kinh doanh là một vần đề quan trọng trong xã hội hiện nay. Do đó, “chủ sở hữu, người sử dụng bí mật kinh doanh cần quan tâm hơn đến đời sống của những người nằm trong khâu sản xuất, người nắm giữ bí mật này. Ngoài ra, cũng cần tổ chức các khóa họ để nâng cao hiểu biết của họ về tầm quan trọng của bí mật kinh doanh, nâng cao trách nhiệm của nhân iên nằm trong khâu quan trọng của quá trình sản xuất bằng cách tuyên truyền, giáo dục tinh thần trách nhiệm cho họ[29]”.
[1] Từ Điển Tiếng Việt, Nxb.Đà Nẵng, tr.39. [2] Nguyễn Lê Thanh Minh (2020), “Pháp luật việt nam về bảo hộ bí mật kinh doanh. Thực trạng và một số kiến nghị”, Tạp chí công thương, (số 05). [3] Nguyễn Thị Quế Anh (2004), “Một số vấn đề về bảo hộ bí mật kinh doanh và hoàn thiện pháp luật về bảo hộ bí mật kinh doanh ở Việt Nam, Tạp chí khoa học đại học quốc gia Hà Nội, (số 03). [4] Lê Hồng Hạnh (2004), “Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị Quốc gia, tr.78. [5] Nguyễn Thị Quế Anh (2004), “Một số vấn đề về bảo hộ bí mật kinh doanh và hoàn thiện pháp luật về bảo hộ bí mật kinh doanh ở Việt Nam, Tạp chí khoa học đại học quốc gia Hà Nội, (số 03). [6] Lê Hồng Hạnh (2004), “Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị Quốc gia, tr.78. [7] Lê Hồng Hạnh (2004), “Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị Quốc gia, tr.78. [8] Khoản 2 điều 3 Hiệp định TRIPS. [9] Lê Thị Ngọc Tuyết (2012), Bảo hộ bí mật kinh doanh theo pháp luật Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật, Trường Đại học Cần Thơ. [10] Lê Thị Ngọc Tuyết (2012), Bảo hộ bí mật kinh doanh theo pháp luật Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật, Trường Đại học Cần Thơ. [11] Nguyễn Thị Quế Anh (2004), “Một số vấn đề về bảo hộ bí mật kinh doanh và hoàn thiện pháp luật về bảo hộ bí mật kinh doanh ở Việt Nam”, Tạp chí khoa học đại học quốc gia Hà Nội, (số 3), tr.76. [12] Nguyễn Lê Thanh Minh (2020), “Pháp luật việt nam về bảo hộ bí mật kinh doanh. Thực trạng và một số kiến nghị”, Tạp chí công thương, (số 05). [13] Lê Hồng Hạnh (2004), “Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị Quốc gia, tr.78 [14] Tri thức trẻ (2014), “Bí mật công thức của coca – cola và người nắm giữ công thức”, truy cập tại https://www.brandsvietnam.com/, ngày truy cập 23/04/2022. [15] Khoản 2, Điều 39 Hiệp định TRIPs. [16] Nguyễn Thị Quế Anh (2004), “Một số vấn đề về bảo hộ bí mật kinh doanh và hoàn thiện pháp luật về bảo hộ bí mật kinh doanh ở Việt Nam”, Tạp chí khoa học đại học quốc gia Hà Nội, (số 3), tr.76. [17] Khoản 2, Điều 39 của Hiệp định TRIPs. [18] Lê Hồng Hạnh (2004), “Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị Quốc gia, tr.78. [19] Điều 226 Bộ luật hình sự năm 2015. [20] Điều 61 Hiệp định TRIPS. [21] Điều 213 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005. [22] Lê Thành Minh (2020), “Pháp luât Việt Nam về bảo hộ bí mật kinh doanh: Thực trạng và một số kiến nghị”, truy cập tại trang http://amp.tapchicongthuong.vn, ngày truy cập 13/06/2022. [23] Lê Thành Minh (2020), “Pháp luât Việt Nam về bảo hộ bí mật kinh doanh: Thực trạng và một số kiến nghị”, truy cập tại trang http://amp.tapchicongthuong.vn, ngày truy cập 13/06/2022. [24] Lê Thành Minh (2020), “Pháp luât Việt Nam về bảo hộ bí mật kinh doanh: Thực trạng và một số kiến nghị”, truy cập tại trang http://amp.tapchicongthuong.vn, ngày truy cập 13/06/2022. [25] Điều 39 của Hiệp định TRIPs. [26] Nguyễn Lê Thanh Minh (2020), “Pháp luật việt nam về bảo hộ bí mật kinh doanh. Thực trạng và một số kiến nghị”, Tạp chí công thương, (số 05). [27] Khoản 2 Điều 3 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 [28] Nguyễn Lê Thanh Minh (2020), “Pháp luật việt nam về bảo hộ bí mật kinh doanh. Thực trạng và một số kiến nghị”, Tạp chí công thương, (số 05). [29] Nguyễn Thị Quế Anh (2004), “Một số vấn đề về bảo hộ bí mật kinh doanh và hoàn thiện pháp luật về bảo hộ bí mật kinh doanh ở Việt Nam”, Tạp chí khoa học đại học quốc gia Hà Nội, (số 3), tr.76Trên đây là bài Tiểu Luận Pháp Luật Về Bảo Vệ Bí Mật Kinh Doanh là một trong những nguồn tài liệu vô cùng hữu ích mà mình cũng đã chọn lọc và triển khai để các bạn có thể cùng xem và tham dõi, chúc các bạn sinh viên sau khi xem được bài viết này thì có thể tự hoàn thành bài tiểu luận của mình. Chưa dừng lại ở đó, nếu như nguồn tài liệu tham khảo trên đây chưa đủ để làm bạn hài lòng thì không vấn gì cả hãy cứ nhanh tay liên hệ ngay đến dịch vụ nhận làm tiểu luận thuê của chúng tôi qua zalo/telegram : 0917.193.864 để được hỗ trợ báo giá nhiệt tình nhé.